Các Sự Kiện Bí Ẩn Xung Quanh Tàu Ngầm K-129: Một Vụ Nổ Dưới Đáy Biển

Screenshot 4 6 568x373 1

Mạng lưới giám sát âm thanh dưới nước của Mỹ đã ghi nhận tiếng nổ kèm theo những âm thanh rùng mình trong vụ mất tích bí ẩn của tàu ngầm K-129 của Liên Xô, diễn ra cách đây hơn nửa thế kỷ.

K-129 là một tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo thuộc dự án 629A, được gọi bởi NATO là lớp Golf-II, được Liên Xô đóng mới và đưa vào hoạt động vào năm 1959. Tàu có chiều dài 100 m, đường kính 8,5 m và trọng lượng nước 2.700 tấn.

Trên tàu, sở hữu vũ khí đáng sợ nhất là ba tên lửa đạn đạo, được phóng từ tàu ngầm R-21, có tầm bắn xa lên đến 1.670 km và đầu đạn hạt nhân với trọng lượng nổ lên đến 1 megaton.

Sau khi trải qua quá trình nâng cấp vào năm 1964, K-129 đã thực hiện hai chuyến tuần tra chiến đấu với tên lửa đạn đạo bên trong kéo dài 70 ngày trong năm 1967. Kế hoạch tiếp theo của tàu K-129 là thực hiện một chuyến tuần tra thứ hai, dự kiến ​​bắt đầu vào tháng 2 năm 1968 và kết thúc vào tháng 5 năm 1968.

Tuy nhiên, vào ngày 24.2.1968, tàu ngầm K-129, số hiệu 722, rời khỏi căn cứ Rybachiy ở Kamchatka. Thuyền trưởng Vladimir I. Kobzar đảm nhận vai trò chỉ huy tàu. Sau khi rời khỏi căn cứ, tàu ngầm K-129 đã lặn sâu để kiểm tra máy móc, sau đó nổi lên và báo cáo với trung tâm chỉ huy rằng mọi thứ đều ổn.

Sau đó, tàu chuyển sang trạng thái hạn chế liên lạc để thực hiện nhiệm vụ tuần tra bí mật, như đã được lập kế hoạch. Theo kế hoạch, tàu ngầm K-129 sẽ liên lạc với trung tâm chỉ huy sau khi vượt qua kinh tuyến 180 độ và xa hơn khi tiến vào khu vực tuần tra.

Tuy nhiên, K-129 đã không liên lạc được với trung tâm chỉ huy theo kế hoạch. Đến giữa tháng 3 năm 1968, các chỉ huy Hải quân Liên Xô tại Kamchatka đã bắt đầu lo lắng vì tàu K-129 đã bỏ lỡ hai lần liên lạc vô tuyến định kỳ.

Ngay lập tức, họ yêu cầu bộ phận thông tin phát đi thông điệp cho phép K-129 mở liên lạc thông thường, bỏ qua chế độ im lặng và liên lạc với sở chỉ huy. Tuy nhiên, không có phản hồi nào từ tàu K-129 và các nỗ lực liên lạc đã thất bại.

Sở chỉ huy tại Kamchatka đã phát thông báo khẩn cấp, cho biết tàu ngầm K-129 đã mất tích vào tuần thứ 3 của tháng 3 năm 1968. Một chiến dịch tìm kiếm quy mô lớn được triển khai dưới dạng một cuộc tập trận.

Các hoạt động bất thường của Hải quân Liên Xô đã thu hút sự chú ý của tình báo Mỹ, có khả năng là phản ứng đối với sự mất tích của tàu ngầm. Hệ thống giám sát âm thanh dưới nước của Mỹ (SOSUS) ở Bắc Thái Bình Dương đã được cảnh báo và đã xem xét lại bản ghi âm thanh từ ngày 8.3 để kiểm tra xem có tín hiệu bất thường nào không.

Dữ liệu sóng âm từ 4 địa điểm của hệ thống SOSUS đã xác định một sự kiện tiền năng, một địa điểm cách xa nơi Hải quân Liên Xô đang tìm kiếm hàng trăm dặm.

Theo Bruce Rule, một cựu nhà phân tích âm thanh thuộc Văn phòng Tình báo Hải quân Mỹ, hệ thống SOSUS ở Bắc Thái Bình Dương đã ghi nhận một tín hiệu âm thanh bất thường vào ngày 8.3.1968.

Đến ngày 11.3.1968, hệ thống SOSUS tiếp tục ghi nhận thêm âm thanh bất thường, có thể là một vụ nổ, sau đó là một loạt âm thanh rùng mình khác, giống như tiếng người kêu la. Nhờ vào hệ thống SOSUS cùng với phương pháp đo tam giác, Hải quân Mỹ đã xác định được địa điểm nghi chìm của tàu ngầm ở 40 độ vĩ Bắc, 180 độ kinh Đông.

Hải quân Liên Xô không được hỗ trợ bởi hệ thống SOSUS, do đó họ không thể xác định chính xác vị trí chìm của tàu ngầm. Họ tập trung tìm kiếm ở một địa điểm cách xa nơi tàu ngầm K-129 chìm hàng trăm dặm.

Khoảng vào tháng 8 năm 1968, tàu ngầm USS Halibut của Mỹ đã xác định được vị trí của tàu ngầm K-129, chìm ở độ sâu 4.900 m. Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ đã nhận thấy cơ hội lớn để thu hồi tên lửa hạt nhân SS-N-5 của Liên Xô một cách bí mật.

Tổng thống Mỹ tại thời điểm đó, Richard Nixon, đã phê duyệt dự án trục vớt tàu ngầm K-129, dưới bí danh của một dự án khai thác mangan dưới đáy biển, biến nó thành dự án tình báo phản gián đắt đỏ nhất trong lịch sử Chiến tranh Lạnh.

Người Mỹ chỉ có thể trục vớt được một phần của xác tàu ngầm K-129 và những gì họ thu được vẫn được bảo mật cho đến ngày nay.

Cho đến nay, nguyên nhân gây ra sự cố của tàu ngầm K-129 vẫn là một bí ẩn. Nhiều giả thuyết đã được đưa ra, bao gồm một vụ nổ hydro trong quá trình sạc pin, va chạm với tàu ngầm của Mỹ, hoặc lỗ rò trong nắp ống phóng tên lửa dẫn đến nước biển tràn vào và gây phát nổ. Tất cả những giả thuyết này vẫn chưa có sự kết luận cuối cùng.